Các Phương pháp giám định đá quý
Các Phương pháp giám định đá quý
Các Phương pháp giám định đá quý
Sưu tầm, biên soạn và tham khảo từ anh Nguyễn Văn Trung - Kỹ sư địa chất cùng những bài viết trích từ cuốn Các phương pháp giám định đa quý - Tác giả: Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc KhôiTRÍCH “LỜI NÓI ĐẦU” CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN NGỌC KHÔI
“Đá quý là những khoáng vật, đá hoặc vật liệu tự nhiên, có những thuộc tính đặc biệt để con người có thể sử dụng vào mục đích làm đẹp cho mình (trang sức, trang trí hoặc mỹ nghệ). Đây là một loại tài nguyên khoáng sản đặc thù mà Mẹ Tự nhiên đã ban tặng cho con người.
Việt Nam hiện nay được biết đến như một quốc gia giầu tiềm năng đá quý trên thế giới. Trong khoảng 20 năm gần đây nhiều loại đá quý khác nhau như ruby, saphir, aquamarin, spinel, turmalin, thạch anh các màu, zircon, peridot…đã được phát hiện và khai thác ở nhiều khu vực trên lãnh thổ nước ta.
Ngành công nghiệp đá quý và trang sức, một ngành có truyền thống lâu đời ở Việt Nam, đang dần trở thành một ngành kinh tế quan trọng của đất nước.”
(Trong Quyển “Các Phương pháp Giám định Đá quý” – Nhà Xuất bản Giáo dục 2006)
NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
Hầu hết các loại đá quý được con người sử dụng cho đến nay đều là các vật liêu thuộc về phần trên cùng của Trái Đất – vỏ Trái Đất. Đó là các loại khoáng vật, các loại đá và các vật liệu khác, được con người sử dụng vào mục đích làm đẹp cho mình (trang sức, trang trí, mỹ nghệ). Vì vậy, khái niệm “đá quý” gắn chặt với các khái niệm “kháng vật”, “đá” và “khoáng sản”.
KHOÁNG VẬT
Khoáng vật là một hợp chất hoá học (từ một hoặc vài nguyên tố hoá học) tạo thành trong các quá trình địa chất tự nhiên. Đó là một vật liệu đồng nhất, có cấu trúc mạng tinh thể và thành phần hoá học (công thức hoá học) xác định, đặc trưng bởi các tính chất hoá học và vật lý nhất định, khác với các khoáng vật khác.
Hiện nay, người ta đã tìm ra trên 3.000 khoáng vật trên Trái đất, nhưng trong số này chỉ có khoảng 100 khoáng vật là có các tính chất cần thiết để con người có thể sử dụng làm đá quý.
ĐÁ
Các khoáng vật không tồn tại độc lập trên Trái đất mà tạo nên các tập hợp khác nhau – các đá. Như vậy, đá là các tập hợp tự nhiên của các khoáng vật, hình thành do các quá trình địa chất trong lòng Trái đất. Các đá tạo nên tất cả các dạng địa hình chúng ta thấy trên bề mặt Trái đất (núi, đồi, đồng bằng, đáy đại dương) và cấu tạo nên hầu hết vỏ Trái đất của chúng ta.
Đá có thể tạo nên từ một loại kháng vật (đá đơn khoáng) hoặc vài loại khoáng vật (đá đa khoáng). Ví dụ, đá granit (đá hoa cương) cấu thành chủ yếu từ 3 loại khoáng vật là thạch anh, felspat và mica; đá vôi tạo thành từ một loại kháng vật là calcit.
KHOÁNG SẢN
Trong địa chất học, khoáng sản được định nghĩa là các đá hoặc tập hợp kháng vật tự nhiên trong vỏ Trái đất, tạo thành do các quá trình địa chất xác định, mà từ đó con người có thể lấy ra các kim loại, các hợp chất hay các khoáng vật để sử dụng trong nền kinh tế quốc dân.
Các ngành kinh tế khác nhau có các yêu cầu khác nhau đối với khoáng sản được sử dụng cho ngành đó. Vì vậy chúng ta có khoáng sản kim loại đen, khoáng sản kim loại màu. Khoáng sản hoá chất, khoáng sản năng lượng (dầu mỏ, khí đốt), khoáng sản đá quý…
ĐÁ QUÝ
Trong từ điển Ngọc học của P.G. Read xuất bản năm 1988, đá quý được định nghĩa là “một khoáng vật được chế tác, có các đặc tính cần thiết như đẹp, hiếm và bền, để sử dụng trong các đồ trang sức”.
Đúng là hầu hết đá quý đều là các khoáng vật, như kim cương, corindon, thạch anh…nhưng có một số loại đá như ngọc bích, đá hoa…cũng là đá quý. Ngoài ra còn có những loại đá quý không phải là khoáng vật hoặc đá, như san hô, ngọc trai, ngà voi, xương động vật…chúng có nguồn gốc sinh vật.
Vì vậy, ta có thể định nghĩa đá quý như sau:
Đá quý là một loại vật liệu tự nhiên (khoáng vật, tập hợp khoáng vật, đá…), tạo thành do các quá trình địa chất hoặc hoạt động của sinh vật, đươc con người sử dụng vào mục đích trang sức, trang trí hoặc mỹ nghệ.
Một số kim loại cũng được con người sử dụng vào mục đích trang sức như vàng, bạc, bạch kim…nhưng không được gọi là đá quý. Chúng có tên gọi riêng là Kim loại quý.
* Ngọc học (Gemmology): môn học chuyên nghiên cứu về đá quý, là một chuyên ngành khoa học về đá quý. Nội dung chủ yếu của Ngọc học là : tổng hợp, đá thay thế và đá xử lý;
- Kỹ thuật gia công chế tác đá quý;
- Nguồn gốc, điều kiện thành tạo và quy luật phân bố đá quý.
Đối tượng của Ngọc học là:
- Các khoáng vật, các tập hợp khoáng vật, các đá nguồn gốc vô cơ: kim cương, corindon, beryl, ngọc bích…
- Các vật liệu nguồn gốc hữu cơ: ngọc trai, san hô, hổ phách, ngà voi…
- Các đá tổng hợp, đá xử lý và sản phẩm nhân tạo: CZ, GGG, YAG, corindon tổng hợp, spinel tổng hợp…
- Các vật liệu bắt chước (omitations).
- Các đá ghép.
Một số người thường đồng nhất Ngọc học và Khoáng vật học (khoa học về các khoáng vật) hoặc coi Ngọc học là một bộ phận của Khoáng vật học. Mặc dù đối tượng của Ngọc học phần lơn cũng là các khoáng vật tự nhiên như Khoáng vật học, nhưng đối tượng, nội dung cũng như phương pháp nghiên cứu của Ngọc học và Khoáng vật học về cơ bản không như nhau.